Tổng quan Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Lịch sử phát triển

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào năm 1930 do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản ở Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương. Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.[3] Qua quá trình phát triển, số đảng viên tăng theo thời gian. Một số thống kê cụ thể là:[4][5]

  • Năm 1935: Có 600 Đảng viên
  • Năm 1951: Có 766.349 Đảng viên
  • Năm 1960: Có 500.000 Đảng viên
  • Năm 1966: Có 760.000 Đảng viên
  • Năm 1976: Có 1.553.500 Đảng viên. Đáng chú ý là số đảng viên tăng gấp hai từ 1966 đến năm 1976, đại diện 3,1% tổng dân số toàn quốc.[6]
  • Năm 1982: Có 1.727.000 Đảng viên
  • Năm 1986: Có 2.109.613 Đảng viên
  • Năm 1991: Có 2.155.022 Đảng viên
  • Năm 1996: Có 2.130.000 Đảng viên
  • Năm 2001: Có 2.479.719 Đảng viên
  • Năm 2006: Có hơn 3.100.000 Đảng viên. chiếm 3,73% dân số cả nước
  • Năm 2009: Đây là năm có số lượng Đảng viên mới kết nạp cao nhất từ trước đến nay với 197.028 người được ồ ạt kết nạp[6]
  • Năm 2010: Có 3.636.158 Đảng viên, so với năm 2009, số đảng viên kết nạp là phụ nữ, dân tộc ít người, tôn giáo, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoạt động sự nghiệp, viên chức kinh doanh, nông dân, sĩ quan, chiến sĩ quân đội và học sinh, sinh viên đều giảm, riêng chỉ có đảng viên kết nạp từ công nhân lao động là tăng.[7]
  • Năm 2015: Có hơn 4.500.000 Đảng viên
Các loại huy chương ở Việt Nam trong đó có huy hiệu 40 năm tuổi đảng

Lịch sử của Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam được xác định thông ngày tháng năm được kết nạp Đảng (ghi trong quyết định hoặc qua thẻ đảng) và xác định qua hệ thống các Huy hiệu tuổi đảng để xác định số năm tham gia Đảng cộng sản. Đối với những người Đảng viên thì Huy hiệu đảng là hiện vật kỷ niệm, vinh dự nhất của người đảng viên đã qua nhiều năm hoạt động về bản thân cá nhân cũng như nêu cao tinh thần tự hào của gia đình, dòng họ.[8]

Trước đây, Hệ thống huy hiệu của Đảng gồm có Huy hiệu 40 năm tuổi đảng, 50 năm tuổi đảng, 60 năm tuổi đảng và 70 năm tuổi đảng. Hiện nay hệ thống huy hiệu này đã bổ sung thêm các loại huy hiệu 30 năm tuổi đảng, 45 năm, 55 năm, 65 năm và 75 năm[9] việc trao tặng thêm này xuất phát từ lý do các đảng viên đạt được những huy hiệu này phần đông là người cao tuổi (hưu trí, thương binh, bệnh binh….), sức yếu do đó nếu quy định thời gian nhận cách nhau quá lớn (10 năm) thì số lượng đảng viên còn sống và minh mẫn để đón nhận không được nhiều.[8]

Phát triển đảng

Đối với công tác phát triển Đảng, mối quan tâm rất lớn của Đảng cộng sản là việc lựa chọn, kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng là nội dung quan trọng, hành động cụ thể, góp phần xây dựng Đảng hay còn gọi là nguồn phát triển Đảng tức lựa chọn những người được Đảng cộng sản gọi là quần chúng ưu tú và có lý tưởng cách mạng trong đó các đối tượng là những người công nhân và người lao động thường được tập trung quyết liệt vì theo nguyên tắc chung thì Đảng cộng sản Việt Nam chính là đội tiên phong của giai cấp công nhân và đại diện cho giai cấp này,[7] ngoài ra chiến lược của đảng cộng sản còn là thường tập trung vào đối tượng thanh niên, đặc biệt là những thanh niên đã vào Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công tác phát triển Đảng trong thanh niên là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đoàn nhằm bổ sung nguồn nhân lực mới cho Đảng. Tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đoàn.[10]

Ngoài ra còn nhiều đối tượng: học viên an ninh,[11] dân quân tự vệ[12] hội viên phụ nữ, nông dân, cựu quân nhân, công nhân ưu tú và sau khi đã xây dựng được nguồn, Đảng ủy lên kế hoạch phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ quần chúng rèn luyện, phấn đấu vào Đảng.[13] Nhìn chung, đảng viên là người theo học tuyết của Chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện chứng và là người vô thần, tuy nhiên trên thực tế Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn xem xét làm thục tục kết nạp kể cả đối với những có tôn giáo, những người đi đạo, miễn là đáp ứng đủ điều kiện theo điều lệ Đảng và có nguyện vọng gia nhập vào Đảng.[14]

Trước đây vào Đảng là yếu tố then chốt của việc vào được Quốc hội và 100% thành viên trong Quốc hội là Đảng viên, nhưng sau này đã có một số cải cách tiến bộ trong đó:

  • Đảng viên được làm kinh tế tư nhân (trước kia đây là điều cấm kị, nếu làm sai có thể khai trừ khỏi đảng cộng sản vì Đảng Cộng sản là chống tư hữu, quan niệm làm kinh tế tư nhân là theo con đường tư sản).
  • Có thể tự ứng cử vào Quốc hội nếu được tổ chức Đảng cấp trên đồng ý (trước đây thường là có người đề đạt mới được ứng cử)
  • Không phải vào Đảng cũng có thể tham gia vào Quốc hội

Thẻ đảng

Thẻ đảng được phát cho các đảng viên được kết nạp theo Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam và là bằng chứng chứng tỏ một người là thành viên của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo quy định chung thì Đảng viên chính thức có đủ tư cách mới được phát thẻ đảng viên. Nếu đảng viên bị thi hành kỷ luật về Đảng từ hình thức khiển trách trở lên thì chưa phát thẻ đảng viên. Không phát thẻ cho đảng viên đang bị bệnh tâm thần.[15] Việc phát thẻ đảng viên được thực hiện theo quy trình khá phức tạp,[16] thông thường được tổ chức thành một buổi lễ trao thẻ (phát thẻ) đảng viên.[17][18]

Thẻ đảng viên dùng để làm giấy chứng nhận cho các sự kiện quan trọng như: Biểu quyết trong sinh hoạt đảng, tham gia sinh hoạt đảng tạm thời dưới 3 tháng, làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng (khi ra ngoài nước phải giao thẻ đảng viên cho Ban Cán sự đảng ngoài nước quản lý). Đảng viên bị mất thẻ phải kiểm điểm trước chi bộ (nếu có lý do chính đáng thì được cấp lại thẻ đảng viên, nếu không có lý do chính đáng thì phải xử lý kỷ luật trước khi cấp lại thẻ),[19] nếu thẻ bị hỏng thì báo cáo với chi bộ để cấp có thẩm quyền đổi lại thẻ đảng viên. Đảng viên hy sinh, từ trần, gia đình của đảng viên đó được giữ lại thẻ đảng viên.[15] Thẻ đảng được thực hiện việc chứng thực bình thường để phục vụ cho các hoạt động theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực.[20]

Vai trò

Trong lịch sử Việt Nam thì Đảng viên có vai trò to lớn. Từ lúc mới thành lập Đảng sự nỗ lực của những đảng viên đã thu hút, lôi cuốn quần chúng vì họ đã nêu cao tinh thần gương mẫu và sự xả thân và là tấm gương sáng về lối sống, tác phong giản dị, gần gũi và rất tốt với nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân và gia đình họ. Theo diễn tiến lịch sử thì đã có hàng vạn đảng viên chịu xung phong làm những việc khó, hy sinh cho lý tưởng của họ.[21] Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ tồn tại và cầm quyền lãnh đạo thông qua từng vai trò của mỗi đảng viên, có lập luận cho rằng nếu không có các thế hệ đảng viên tận tụy trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh để thực hiện nhiệm vụ và không có những thế hệ đảng viên giữ gìn được phẩm chất, đạo đức, lối sống tốt đẹp, luôn gương mẫu thì Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lớn mạnh, không thể có đủ uy tín để lãnh đạo đất nước.[22]

Bút tích của Đảng viên Lưu Chí HiếuNhà tù Côn Đảo, dù bị tra tấn nhưng ông đã khẳng định là không li khai Đảng
Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt
— Hồ Chí Minh[23]

Một số Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam có thể kể đến là:

Tính đến nay, đội ngũ đảng viên có vai trò rất lớn trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước (ở các vị trí lãnh đạo, quản lý)[24] cũng như các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể ở Việt Nam. Hầu hết các lãnh đạo cao cấp, chủ chốt của nhà nước như nguyên thủ quốc gia, chủ tịch quốc hội, người đứng đầu chính phủ, thủ trưởng các bộ, ngành, người đứng đầu các tổ chức đoàn thể đều có lý lịch là Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hoặc được kết nạp đảng trước khi bổ nhiệm. Chính vì việc này mà dư luận quan tâm đặt ra vấn đề người ngoài đảng có được bổ nhiệm ở cấp bộ trở lên thậm chí là các thành viên chóp bu của chính phủ, quốc hội[25] và ngay cả là ở cấp cơ sở mà trước mắt là cấp tỉnh (Sở) thông qua con đường thi tuyển công chức.[26]

Ngày nay, trong việc bàn về xóa đói giảm nghèo tại các vùng sâu vùng khó khăn,việc phát triển kinh tế được đặt lên những Đảng viên. Ở Sơn la, Lai Châu, Điện Biên, Bạc Liêu[22]... theo số liệu thống kê với số xã giảm nghèo có hiệu quả cũng là những xã có lượng Đảng viên tăng trưởng tốt. Nhiều địa phương thoát nghèo từ lúc có chi bộ Đảng ra đời. Đấy cũng có thể coi là một biểu hiện chân thực về vai trò của Đảng viên trong thời kì mới. Theo lý luận thì trong giai đoạn mới của Việt Nam hiện nay, đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới là việc tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và phải chống lại diễn biến hòa bình. Những yêu cầu đó buộc đảng viên phải có lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị đồng thời nhận thức, kiến thức, năng lực thực hiện công cuộc đổi mới nhưng vậy mới có đủ kiến thức để tuyên truyền cho nhân dân, phổ độ cho các đối tượng đi theo cách mạng, và phải có phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách tốt mới phục chúng và phải có quan hệ mật thiết với quần chúng.[27]

Khi còn sống thì Hồ Chí Minh luôn đề cập đến việc cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng viên.[27] Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra các căn bệnh nguy hiểm trong cán bộ, đảng viên như: kiêu ngạo, hống hách, hẹp hòi, tham nhũng… ông đã kêu gọi mọi cán bộ, đảng viên phải hành động quyết liệt để chống lại những căn bệnh đó để nhân dân tin Đảng và Đảng phải vững mạnh để phục vụ nhân dân.[28]

Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
— Trích Di chúc của Hồ Chí Minh[23]

Trong văn hóa

Trong văn hóa, Đảng viên được nhắc đến qua câu nói: Đảng viên đi trước, làng nước theo sau để chỉ về tính xung kích, tiên phong, gương mẫu của người Đảng viên, giám đi trước, dám làm việc khó và chịu trách nhiệm về việc của mình, nêu gương cho quần chúng.[29] Hình tượng người Đảng viên được nhắc đến qua các hình thức nghệ thuật khác nhau như sân khấu, điện ảnh, truyền hình, ca nhạc, kịch nói, báo chí... trong đó gắn với hình ảnh của những cuộc chiến tranh và xây dựng đất nước, và thường mô tả về sự dũng cảm, sự hi sinh và những phẩm chất tốt đẹp của người Đảng viên. Trong thời kỳ mới, có nhà biên kịch Vũ Hải tập trung cho mảng đề tài hình tượng người đảng viên cộng sản trong thời kỳ mới, đặc biệt là những tác phẩm gần mô tả góc khuất đời người, những diễn biến tâm lý của người đảng viên.[30]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam http://vnexpress.net/tin-tuc/xa-hoi/nguoi-ngoai-da... http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/01/1301... http://baobaclieu.vn/newsdetails/1D3FE18094A/Cac_t... http://sotuphap.bgit.vn/index.php?option=com_conte... http://hcm.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/7-truong-... http://baoquangngai.com.vn/channel/2023/201307/hoc... http://dantri.com.vn/ban-doc/bo-truong-ngoai-dang-... http://dantri.com.vn/ban-doc/co-cong-chung-duoc-th... http://www.nhandan.com.vn/bandoc/duong-day-nong/it... http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_ndct/_mob...